Hướng dẫn thi trắc nghiệm khách quan mùa thi 2006

21/10/2005 20:55 GMT+7

Ngày 20.10, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã đã văn bản hướng dẫn chi tiết về việc thi trắc nghiệm khách quan (TNKQ) đối với môn ngoại ngữ trong kì thi tốt nghiệp THPT và kì thi tuyển sinh vào ĐH, CĐ từ năm 2006. Sau đây là chi tiết văn bản trên:

I. Thi trắc nghiệm và câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn

Trong kì thi tốt nghiệp THPT vào tháng 6 năm 2006 và thi tuyển sinh vào ĐH-CĐ tháng 7 năm 2006, các đề thi ngoại ngữ (Tiếng Nga, Tiếng Pháp, Tiếng Trung) được ra hoàn toàn dưới hình thức TNKQ cho thí sinh học chương trình phân ban và thí sinh học chương trình không phân ban. 

Có nhiều kiểu câu hỏi trắc nghiệm khác nhau nhưng các câu trắc nghiệm dùng trong các đề thi ngoại ngữ từ năm 2006 đều là câu nhiều lựa chọn. Câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn có hai phần, phần đầu được gọi là phần dẫn, nêu ra vấn đề, cung cấp thông tin cần thiết hoặc nêu một câu hỏi; phần sau là các phương án để chọn, được đánh dấu bằng các chữ cái A, B, C, D ... Trong các phương án để chọn, chỉ có duy nhất một phương án đúng hoặc một phương án đúng nhất; các phương án khác được đưa vào có tác dụng “gây nhiễu”  đối với thí sinh. Nếu không nắm vững kiến thức về vấn đề đã nêu, thí sinh sẽ không thể nhận biết được trong tất cả các phương án để chọn đâu là phương án đúng, đâu là phương án nhiễu.

Các câu trắc nghiệm trong đề thi ngoại ngữ năm 2006 đều có 4 lựa chọn A, B, C, D. Mỗi đề thi tốt nghiệp THPT có khoảng 50 câu trắc nghiệm;mỗi đề thi tuyển sinh ĐH-CĐ có khoảng 70 đến 100 câu trắc nghiệm. Thời gian làm bài thi là 45 phút đối với bài thi tốt nghiệp THPT và 90 phút đối với bài thi tuyển sinh vào ĐH-CĐ. Đề thi do Bộ GD-ĐT tổ chức biên soạn, được in sẵn và có nhiều phiên bản, do máy tính tự động xáo trộn thứ tự câu cũng như thứ tự các phương án A, B, C, D. Việc đáp ứng các yêu cầu của đề thi, phạm vi kiến thức, thang điểm và yêu cầu về giám sát, bảo mật đối với đề thi trắc nghiệm được thực hiện như đối với đề thi tự luận.

II. Qui trình thi trắc nghiệm đối với thí sinh

1. Những qui định chung:

Khi thi trắc nghiệm, thí sinh phải tuân thủ các qui định chung trong Qui chế thi hiện hành. Thí sinh mang vào phòng thi bút mực (hoặc bút bi), bút chì đen loại mềm (2B ... 6B), gọt bút chì và tẩy chì. Nên mang theo đồng hồ để theo dõi giờ làm bài.

2. Điền vào phiếu trả lời trắc nghiệm:

Trước giờ làm bài, thí sinh được phát một phiếu trả lời trắc nghiệm. Đây là tờ giấy được in sẵn để thí sinh làm bài và để chấm bằng máy. Thí sinh có thể dùng bút mực hoặc bút bi (chỉ được dùng một thứ mực không phải là mực đỏ) để viết phần chữ hoặc chữ số trong các mục 1, 2,3... trên phiếu trả lời trắc nghiệm; dùng bút chì đen tô kín các ô tròn nhỏ, để khi tô sai có thể tẩy chì dễ hơn tẩy mực.

Ngay sau khi nhận được phiếu trả lời trắc nghiệm thí sinh dùng bút mực điền đầy đủ vào các mục để trống (từ số 1 đến số 9: Hội đồng thi, Hội đồng coi thi...); đặc biệt lưu ý ghi chính xác họ và tên thí sinh bằng chữ in hoa, ngày sinh, chữ ký; ghi đầy đủ, chính xác số báo danh vào các ô vuông nhỏ trên đầu các cột của khung số báo danh. Sau đó, dùng bút chì, lần lượt theo từng cột tô kín  tròn có chữ số tương ứng với chữ số ở đầu cột. Lưu ý chưa ghi mã đề thi.

3. Nhận đề thi:

Khi nhận được đề thi, thí sinh ghi tên và số báo danh của mình vào đề thi. Phải kiểm tra xem đề thi có đủ số lượng câu hỏi như đã ghi trong đề; nội dung đề được in rõ ràng, không thiếu chữ, mất nét; tất cả các trang của đề thi đều có ghi cùng một số mã đề thi không ? Nếu có những chi tiết bất thường, thí sinh phải báo ngay cho giám thị để xử lý. Đề thi có mã số riêng. Thí sinh xem mã đề thi (in trên đầu đề thi) và ghi ngay 3 chữ số của mã đề thi vào 3 ô vuông nhỏ ở đầu các cột của khung chữ nhật; sau đó lần lượt theo từng cột tô kín ô tròn có chữ số tương ứng với chữ số đầu mỗi cột.

4. Làm bài:

Khi làm từng câu trắc nghiệm, thí sinh cần đọc kỹ nội dung câu trắc nghiệm, phải đọc hết trọn vẹn mỗi câu trắc nghiệm, cả phần dẫn và 4 lựa chọn A, B, C, D để chọn phương án đúng hoặc đúng nhất (A hoặc B, C, D) và tô kín ô tròn tương ứng với chữ cái A hoặc B, C, D trong phiếu trả lời trắcnghiệm.

Cần chú ý làm đúng những điều sau:

- Không dừng lại quá lâu trước một câu hỏi nào đó; nếu không làm được câu hỏi này thí sinh nên tạm thời bỏ qua để làm câu hỏi khác; cuối giờ có thể quay trở lại làm câu hỏi đã bỏ qua, nếu còn thời gian.

- Làm đến câu hỏi nào thí sinh tô ngay câu đó vào phiếu trả lời, tránh làm toàn bộ các câu của đề thi trên giấy nháp hoặc trên đề thi rồi mới tô vào phiếu trả lời trắc nghiệm, vì mất nhiều thời gian.

- Khi tô các ô tròn, phải tô đậm và lấp kín diện tích cả ô. Tuyệt đối không gạch chéo, hoặc đánh dấu vào ô được chọn.

- Ứng với mỗi câu trắc nghiệm chỉ được tô 1 ô tròn; khi câu trắc nghiệm có 2 hay nhiều khả năng đúng thì chỉ tô 1 ô tròn ứng với khả năng đúng nhất; nếu tô 2 ô trở lên máy sẽ không chấm và câu đó không có điểm.

- Trong trường hợp tô nhầm hoặc muốn thay đổi câu trả lời, thí sinh dùng tẩy tẩy thật sạch chì ở ô cũ và tô kín ô khác mà mình mới lựa chọn.

- Số thứ tự câu trả lời mà thí sinh làm trên phiếu trả lời trắc nghiệm phải trùng với số thứ tự câu hỏi của đề thi. Tránh trường hợp trả lời câu hỏi này nhưng tô vào hàng của câu hỏi khác trên phiếu trả lời trắc nghiệm.

- Chỉ có phiếu trả lời trắc nghiệm mới được coi là bài làm của thí sinh, do đó nếu thí sinh chỉ trả lời ngay trên đề thi hoặc giấy nháp thì bài làm sẽ không được chấm.

- Để cho bài làm của thí sinh được chấm (bằng máy) thí sinh phải giữ cho phiếu sạch sẽ, không được làm rách, làm nhàu hoặc có vết gấp, mép giấy bị quăn.

- Ngoài 10 mục cần ghi trên phiếu bằng bút mực và các câu trả lời tô chì, thí sinh tuyệt đối không được viết gì thêm hoặc để lại dấu hiệu riêng trên phiếu trả lời trắc nghiệm và đề thi. Bài có dấu riêng sẽ bị coi là phạm qui và không được chấm điểm.

- Thí sinh có thể viết nháp trên giấy nháp, nhưng không được chép lại bất cứ câu hỏi nào của đề thi ra giấy.

- Bài làm phải có 2 chữ ký của 2 giám thị phòng thi.

5. Nộp bài:

Khi hết giờ làm bài trắc nghiệm, có lệnh thu bài, thí sinh phải ngừng làm bài, bỏ bút xuống, chờ nộp phiếu trả lời trắc nghiệm và đề thi theo hướng dẫn của giám thị. Thí sinh không làm được bài vẫn phải nộp phiếu trả lời trắc nghiệm và đề thi.

III. Về tổ chức kì thi

Việc sắp xếp chỗ ngồi trong phòng thi cho thí sinh, bố trí các giám thị và qui trình coi thi trắc nghiệm môn ngoại ngữ được thực hiện hoàn toàn như các môn thi tự luận, trừ một số qui định sau:

- Giám thị phát đề thi cho thí sinh theo hàng ngang trong phòng thi và liên tục theo thứ tự từ trên xuống dưới phòng thi.

- Số đề thi còn dư ở phòng thi được bàn giao lại cho Hội đồng coi thi ngay trong lúc thí sinh làm bài.

- Yêu cầu thí sinh làm xong bài phải ngồi tại chỗ, không nộp bài trắc nghiệm trước khi hết giờ làm bài.

- Thí sinh chỉ được rời khỏi chỗ của mình sau khi giám thị đã kiểm đủ số phiếu trả lời trắc nghiệm và đề thi của cả phòng thi.

Chấm thi:

Bài thi trắc nghiệm của thí sinh được giữ trong túi niêm phong từ Hội đồng thi và chuyển về những trung tâm chấm thi do Bộ GD-ĐT tổ chức theo vùng (Bắc, Trung, Nam). Chấm thi trắc nghiệm được thực hiện trên máy quét chuyên dụng với phần mềm chấm thi. Điểm bài thi trắc nghiệm được qui về thang điểm 10 như  thi tự luận.

Qui định cách li, giám sát, bảo mật trong khâu chấm thi trắc nghiệm được thực hiện như đối với thi tự luận theo qui chế hiện hành; thực hiện giámsát tại chỗ và liên tục trong lúc chấm và xử lí kết quả thi. Kết quả chấm thi trắc nghiệm được gửi về các Hội đồng thi của các Sơ GD-ĐT, Hội đồng tuyển sinh của các trường đại học nơi thí sinh dự thi. Bài thi trắc nghiệm của thí sinh được phúc khảo như bài tự luận.

IV. Chuẩn bị cho kì thi năm 2006

-  Tháng 11/2005 Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục tổ chức thí điểm thi ở một số vùng miền (sẽ có thông báo riêng). Mục đích của cuộc thi là khảo sát trình độ học sinh lớp 12 và định cỡ đề thi; không tính điểm vào kết quả học tập của học sinh.

- Tháng 01/2006 tổ chức thi thử trắc nghiệm ngoại ngữ cho học sinh đang học lớp 12 trên toàn quốc để tập dượt. Điểm thi thử không tính vào kết quả học tập của học sinh, nhưng kì thi phải được tiến hành nghiêm túc, với đầy đủ yêu cầu của một kì thi chính thức (từ khâu ra đề thi ở Bộ, in sao đề và coi thi ở  cơ sở, chấm thi ở các trung tâm, báo kết quả thi).

Nhựt Quang (tổng hợp)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.