Phản hồi từ bài Khi tòa quên hồ sơ gốc: Bản án sai, thi hành án càng sai

26/10/2007 22:17 GMT+7

Báo Thanh Niên số ra ngày 29.3.2007 đăng bài: Khi tòa quên hồ sơ gốc, phản ánh những sai sót của các cấp tòa khi xét xử vụ án "Đòi mặt bằng và cho thuê mặt bằng" giữa bà Phạm Thị Phi và ông Huỳnh Đắc Tiến.

Ông Huỳnh Đắc Tiến thuê diện tích 740m2 của ông Phạm Minh Phụng (anh ruột bà Phi), sau khi ông Phụng chết, bà Phi khởi kiện đòi mặt bằng mà ông Tiến đang thuê. Trong quá trình xét xử, các cấp tòa từ TAND Q.Bình Thạnh đến TAND Tối cao đều căn cứ vào bản photocopy "tờ cho quyền thừa kế" mà bà Phi trưng ra để xét xử cho bà Phi thắng kiện. Văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong vụ án này là QĐ số 06 ngày 24.4.2002 của Ủy ban Thẩm phán TAND Tối cao có nội dung: "Chấp nhận yêu cầu của bà Phi buộc ông Huỳnh Đắc Tiến trả lại toàn bộ mặt bằng đang sử dụng tại 295/11 Nơ Trang Long với tổng diện tích 1.130m2".

Tuy nhiên những cái sai của các cấp tòa thể hiện rất rõ ở những nội dung:

- Thứ nhất: Tòa chỉ căn cứ vào bản photocopy "tờ cho quyền thừa kế" trong khi bản chính "tờ cho quyền thừa kế" thì Công an TP.HCM đang giữ với lý do Công an TP.HCM đã thụ lý vụ việc bà Nguyễn Thị Hoa (vợ ông Phụng, chị dâu bà Phi) kiện bà Phi giả mạo chữ ký của ông Phụng. Kết quả giám định số 2142/C21B ngày 25.9.2000 của Phân viện Khoa học hình sự - Bộ Công an khẳng định: Chữ ký trong "tờ cho quyền thừa kế" và mẫu chữ ký của ông Phạm Minh Phụng không phải do cùng một người ký".

- Thứ hai: Tòa án đã tính nhầm diện tích mà ông Huỳnh Đắc Tiến đã thuê của ông Phụng từ 740m2 lên đến 1.130m2, việc tính nhầm này đã trùm lên cả phần diện tích mà ông Phụng đã bán cho người khác, trong đó có ông Nguyễn Kim Quýt.

Theo báo cáo của Sở Xây dựng TP.HCM (thể hiện tại công văn số 7608/CCQNĐ ngày 28.10.2005 và công văn 411 ngày 18.5.2006), các cơ quan chức năng địa phương đã căn cứ vào QĐ số 06 ngày 24.4.2002 của Ủy ban Thẩm phán TAND Tối cao để tham mưu cho UBND TP.HCM cấp cho bà Phi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy CNQSDĐ) với diện tích 1.130m2 và đã cấp trước khi cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành bản án. Sau khi xem xét đơn thư khiếu nại, tố cáo của bà Nguyễn Thị Hoa và ông Nguyễn Kim Quýt, UBND TP.HCM đã thận trọng có văn bản đề nghị TAND Tối cao giải thích rõ nội dung QĐ 06. Ngày 27.8.2007, TAND Tối cao có công văn số 708 giải thích như sau: "Quyết định giám đốc thẩm số 06 ngày 24.4.2002 của Ủy ban Thẩm phán TAND Tối cao chỉ giải quyết quan hệ tranh chấp về đòi mặt bằng cho thuê giữa bà Phi và ông Tiến mà không giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đối với mặt bằng (tại 295/11 Nơ Trang Long, Q.Bình Thạnh, TP.HCM). Do đó, Quyết định giám đốc thẩm số 06 nêu trên không phải là căn cứ xác định quyền sở hữu nhà xưởng và quyền sử dụng đất đối với mặt bằng tại 295/11 Nơ Trang Long".

Sau khi nhận được giải thích của TAND Tối cao, UBND TP.HCM đã có công văn yêu cầu Sở Xây dựng "... làm rõ việc UBND TP.HCM cấp giấy CNQSDĐ cho bà Phi là đúng quy định Luật Đất đai hay không? Làm rõ diện tích nhà xưởng mà ông Tiến trực tiếp ký hợp đồng với bà Phi...".

Theo chúng tôi, UBND TP.HCM cấp giấy CNQSDĐ cho bà Phạm Thị Phi là do các cơ quan tham mưu căn cứ vào Quyết định của Ủy ban Thẩm phán TAND Tối cao đề xuất. Nay, theo giải thích của TAND Tối cao như vậy là sai trái, do vậy cần thiết phải xem xét cá nhân, đơn vị nào đã làm sai hoặc có tiêu cực trong việc đề xuất cấp giấy CNQSDĐ cho bà Phi.

Đề nghị UBND TP.HCM hủy bỏ giấy CNQSDĐ đã cấp. Thẩm tra lại diện tích đất thực tế mà ông Phụng đã cho ông Tiến thuê, xác định lại quyền thừa kế diện tích đất tại 295/11 Nơ Trang Long thuộc về ai? Ngoài ra, cơ quan Công an TP.HCM cũng nên sớm phục hồi hồ sơ để xác định ai đã giả mạo chữ ký của ông Phụng trong "tờ cho quyền thừa kế" căn cứ vào kết quả giám định đã có; xem xét hậu quả, trách nhiệm của hành vi giả mạo này.

Thanh Đông

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.