Chuyện về Đặng Thùy Trâm viết từ Mỹ (kỳ 3)

10/10/2005 23:13 GMT+7

Chuyện của nhóm lính Mỹ đột kích vào trạm phẫu thuật của Đặng Thùy Trâm Lữ đoàn 11 sư đoàn Americal có 4 tiểu đoàn bộ binh cơ hữu: 3/1 (Always First), 1/20 (Sykes Regular), 4/21 (Gimlet) và 4/3 (Old Guard). Tiểu đoàn 1/20 là tiểu đoàn đã gây ra vụ thảm sát Mỹ Lai, Quảng Ngãi.

Nguyễn Trung Hiếu, Trần Bình và Nguyễn Văn Thế là ba trung sĩ thông dịch viên  được biệt phái làm việc cho đại đội tình báo quân sự 635 Military Intelligence Detachment (MID). Chính do biệt phái làm việc tại đây nên Nguyễn Trung Hiếu có điều kiện tiếp cận nhiều loại tài liệu, trong đó có nhật kí của bác sĩ Đặng Thùy Trâm do các toán viễn thám mang về.

LRRP là cơ quan viễn thám của sư đoàn Americal. Bộ chỉ huy của Americal LRRP đặt tại Chu Lai. Trung đội 1 tăng phái về lữ đoàn 11, Đức Phổ. Trung sĩ Danny L.Jacks là toán trưởng toán Oregon, thường xuyên được thiếu tá Perkin, trưởng phòng 2 giao nhiệm vụ truy lùng đội phẫu thuật lưu động của bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Trước khi được sư đoàn đề bạt chức vụ trưởng phòng 2, thiếu tá Perkin nguyên là trưởng phòng 5 Dân sự vụ. Trung đội 1/29 tăng phái yểm trợ kĩ thuật cho phòng 5 của thiếu tá Perkin. Làm việc với


Jacks (bìa phải)

nhau hơn nửa năm, thiếu tá Perkin hay nhờ tôi trong công việc phiên dịch khi tiếp xúc với người dân hay chính quyền. Sau này sang phụ trách Ban 2, thiếu tá Perkin vẫn tiếp tục mượn tôi làm phiên dịch riêng. Nhờ đó, tôi hiểu rõ thêm về LRRP và kết bạn với các lính Mỹ, những con người mặt mũi không lúc nào sạch phấn ngụy trang.

Cuối năm 1969, Oregon Team nhận nhiệm vụ thám sát một thung lũng có vị trí bản đồ phía đông - đông nam Ba Tơ, Quảng Ngãi. Ở buổi thuyết trình chiến thuật, thiếu tá Perkin kết thúc bằng một câu dặn dò riêng với người toán trưởng: "Jacks, một nhóm quân y Vi-xi đang có mặt trên chỗ ấy đấy". Jacks hỏi lại tôi. Tôi giải thích ý của Perkin rằng, nhóm quân y có nghĩa là người con gái miền Bắc đang giữ chức vụ bác sĩ giải phẫu của một trung đoàn thuộc sư đoàn Sao Vàng quân chính quy Bắc Việt. Jacks ngẫm nghĩ một lúc rồi à một tiếng: "Nhớ rồi".

Toán viễn thám Oregon lên đường vào sáng sớm hôm sau. Hai chiếc trực thăng võ trang Shark của 174 Aviation Company hộ tống chiếc Slick chở Oregon bay là là trên ngọn cây. Cả ba tiến vào vùng núi cao, bay len giữa thung lũng, vượt qua, hạ tầm bay, chúi đầu rồi đáp xuống sân bay dã chiến của Chi khu Ba Tơ. Tôi và Jacks nhanh chân chạy vào BCH Chi khu. Thiếu tá Bửu Tương, Chi khu trưởng, nguyên là sĩ quan liên lạc của sư đoàn Americal, cũng là sĩ quan chỉ huy trực tiếp của tôi hồi ấy, tiếp Jacks và tôi. Thiếu tá Bửu Tương cung cấp thêm cho Jacks một số tin tức có liên quan đến sự xuất hiện của một đơn vị thiết giáp quân Bắc Việt ở phía đông - đông nam Chi khu Ba Tơ. Ông tăng cường cho Oregon một người dẫn đường địa phương. Tiễn chúng tôi ra sân bay, ông lắc vai tôi: "May mắn!". Sau lần ấy tôi chẳng bao giờ còn gặp lại ông nữa!

...Tôi được gọi gấp lên Trung tâm Hành quân, gọi tắt là TOC, vào lúc nửa đêm. Trưởng phòng 2 muốn tôi dịch cho ông ấy những âm thanh đang vang lên trong hệ thống truyền tin nội bộ của lữ đoàn. Đại tá Okral K.Henderson, lữ đoàn trưởng, cũng có mặt. Mặt ai cũng căng thẳng. "U Minh Đen đã hết thép". Tiếng một âm thoại viên có giọng Bắc lặp đi lặp lại. "Oregon Team đang bị nguy" - thiếu tá Perkin nói, "Jacks đang cố gắng di chuyển đến điểm an toàn". Đã 2 giờ sáng! Jacks đang hướng dẫn cả toán viễn thám chạy thoát vào lúc hai giờ sáng. Không thể tin được. Tôi nghe tiếng Jacks gọi về xin phép chấm dứt liên lạc âm thoại vì địch ở rất gần.


Cảnh giao chiến tại Đức Phổ, nơi Thùy Trâm đã sống, chiến đấu và hi sinh (ảnh: Frederic Whitehurst)
Jacks kể lại: "Từ trên triền đồi chúng tôi phát hiện một số lán trại nằm khuất trong vòm cây nhô ra che phủ dọc bờ suối. Cả toán dừng lại chia nhau hướng quan sát. Đáng lẽ di chuyển đến mục tiêu đã định và thiết lập đài quan sát (OP) nhưng các lán trại phía trái của hướng di chuyển đã thu hút sự tò mò của tôi. Chúng tôi lần xuống thấp. Có khói bốc vơ vưởng, có tiếng người, có tiếng va chạm... Tôi nhìn thấy hai chiếc cáng cứu thương của quân đội Mỹ được dựng vào một thân cây. Có một cáng thương đi phía bên phải cách chỗ tôi khoảng 20 mét. Như một ánh chớp trong đầu chợt lóe sáng, tôi đang lọt vào một hospital (bệnh viện) của Vi- xi!".

"Mỹ! Mỹ!" - Jacks tiếp - "Tôi nghe có tiếng la lớn bằng tiếng Việt. Không còn sự lựa chọn, chúng tôi đột kích thẳng vào lán thứ nhất. Một trái RPD nổ bùng bên trái đội hình. Có tiếng AK chát chúa, đạn xéo trên đầu. Oregon bị dìm đầu gần hai phút. Nổ súng, chúng tôi buộc phải nổ súng và đáp trả bằng hai trái hỏa tiễn cầm tay L.A.W (Light Anti - Tank Weapon) hay M.72. Ngưng tác xạ, nửa phút nghe ngóng. Hoàn toàn im lặng. Cả toán tiếp tục xông vào lán thứ nhất. Giường dã chiến đổ nghiêng nhưng không còn ai. Ba chiếc lán kia cũng thế. Cuộc lục soát tạm kết thúc, Gromacki (qua đời năm 2003 tại Mỹ) trao cho tôi một mớ giấy tờ, Schult cầm một thùng đạn M.16, không biết chứa gì trong đó và một cây súng AK.47 đã bị gãy báng. Khoảng 10 phút sau, trong lúc tôi đang củng cố và rút lui..., đối phương quay lại phản kích. Họ đàn áp chúng tôi bằng hỏa lực. Rồi họ đến đông thêm. Chúng tôi cho nổ hỏa lực bọc hậu bằng mìn claymore".

"Chạy, chạy nhanh hơn. Tôi nghe tiếng hò hét vang lên phía sau. Toán Oregon lên đến gần đỉnh núi vào khoảng một giờ đêm. Tơi tả, mất mát thiết bị và đạn dược. May còn máy truyền tin. Chưa bao giờ trong đời tôi phải chạy nhiều như thế. Ở Trung tâm Huấn luyện Ranger North Carolina, tôi cũng chưa từng chạy đến mức ngất thở. Tôi và các bạn đã chạy trong rừng dày đặc đầy gai góc gần 7 tiếng đồng hồ. Chạy dưới làn đạn bắn theo, chạy trong tiếng thét hãi hùng của những người săn đuổi như dính cứng sau lưng" - Jacks kết thúc.

Nhóm Rescue (giải cứu) của lữ đoàn bay vào núi sâu lúc mây mù trước mặt giãn ra. Bốn chiếc Shark và hai chiếc Slick. Chiếc Slick hốt gọn toán Oregon rồi quay đuôi. Nhìn sang, tôi thấy Jacks và  đưa ngón tay cái chào, nhưng anh ấy lắc đầu. Cả đoàn đáp xuống sân bay Ba Tơ để giao trả người dẫn đường. Jacks sang trực thăng của chúng tôi. Mặt Jacks xanh đen, lớp vẽ ngụy trang vằn xước những vệt máu khô. Jacks chỉ vào bụng: "Tao giúp cho mày có việc làm". Cánh cửa trực thăng đóng lại. Tôi nóng nảy liếc sơ xấp giấy tờ Jacks tống vào ngực áo, trong số ấy, có tờ đẫm mồ hôi. Tờ nào cũng viết bằng viết mực. Có đóng dấu kí tên. Con dấu nhìn mờ mờ quen quen. Hình như là quân y. Và chữ kí của tên người thì tôi đã gặp. Bạn tôi, Hiếu Nguyễn, thông dịch viên của Tiểu đoàn 2/35, lữ đoàn 3 sư đoàn 4 bộ binh Hoa Kỳ, hồi làm việc chung ở căn cứ Bronco đã từng khoe với tôi mấy lần: "Chữ ký của bác sĩ quân y Đặng Thùy Trâm!".

Lê Thành Giai (California, Mỹ)

Kỳ tới: “Cô ấy đã chạy trên những hố bom B52”

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.