Nhật ký Tài hoa ra trận của Hoàng Thượng Lân - Kỳ 6: Ra trận lần thứ hai

27/09/2005 23:04 GMT+7

1/4/1971 Đúng 3h, đơn vị tập trung, hành quân ra ga Văn Điển. 7h, tàu chuyển bánh. Tàu chạy nhanh và rú còi ầm ĩ. Đầu máy xả hơi nước phì phò. Gió mát ập vào toa, ập vào lồng ngực mình đang thổn thức. Những mái ngói thành phố lùi dần về sau... Thôi nhé, "Tạm biệt ba mẹ và các em của con...". Giấu mọi người, mình áp mặt vào cánh cửa toa, khóc một cách thoải mái.

12h đêm tới Vinh. Ngủ gà ngủ gật trên tàu. 
Đêm hôm qua ở thành phố. Mình đến thăm và chào từ biệt gia đình hai mẹ con cô T. Mẹ T. sốt sắng làm cơm nếp gói cho mình một gói to để mang đi ăn đường. T. bọc nó trong một chiếc khăn mùi soa mới có những nét viền đẹp của một đường thêu công phu từ một bàn tay khéo léo dệt nên - kỷ vật của một người ở lại - T. còn mua cho mình một chiếc quạt. T. nói: "Quạt này để anh dùng rồi đây khi ở trên Trường Sơn những ngày nắng nóng và mỗi khi nhớ... nhớ...". Cô ta dừng lại, im bặt, mặt đỏ bừng, chẳng nói được thêm câu nào nữa.
Cơm nếp của mẹ T. cho mang đi, cùng ăn với mấy anh em trên tàu. Lạc độn nhiều, ai cũng khen ngon.
Con tàu hú còi, tăng tốc độ đi nhanh vào hướng trong, xa dần nếp nghĩ đang dâng trào. Kỷ niệm đã qua và những gì của hôm nay. Tự nhiên trong lòng thấy chộn rộn, xao xuyến. Thứ bảy này, thế là mình không có mặt ở nhà nữa. Ba mẹ và các em chắc không quên nhắc đến tên mình đây. Lại nhơ nhớ T., nhớ cô bé "chăn bò" có một cuộc đời khác với mọi người, đau khổ được thể hiện rõ trên đôi mắt nhìn xa xôi ấy.

3/4/1971
Đi ca-nô, lênh đênh trên dòng sông Lam một đêm trăng vằng vặc. Đêm dần về khuya. Hai bên bờ sông nhấp nháy những ánh đèn dầu thôn xóm. Đèn thao thức. Lòng dân cũng thức theo tiếng máy ca-nô nổ rền.

4/4/1971
Ô tô đưa bọn mình về KP., một chiều trời nắng nóng và đầy bụi đường. Những chiếc xe dăng dài thành tuyến dọc, chở đầy chiến sĩ, lắc mạnh và chồm qua những ổ gà, mô đất. Lá ngụy trang rung, rơi lả tả xuống sàn xe. Bụi mù mịt. Chẳng mấy chốc nhìn nhau, tóc ai cũng đều bạc đỏ cả.
Mệt vì say xe, ngủ không còn biết trời đất là gì nữa.

5/4/1971
Đêm ngủ trên Trường Sơn. Rừng bạt ngàn, hoang dã, bí mật và dễ sợ. Bình minh ở rừng khó nhận thấy hơn ở đồng bằng. Hai chiếc trinh sát OV... mò đến từ sớm, tiếng động cơ rền rĩ, dai dẳng.
Đã một tuần nay toàn leo núi và lội suối, bám dây song trườn qua những eo vực sâu thăm thẳm lại tưởng tượng như mình là những người địa chất đang đi tìm quặng. Đồ đạc đeo trên ba lô chẳng giảm đi được chút nào. Cơm không thấy buồn ăn nữa. Quanh đi quẩn lại vẫn chỉ thấy cơm với muối không, mặn đắng cả lưỡi.
Đường giao liên dẫn bọn mình ngày một vào sâu hơn về phía Tây Nam.

9/4/1971
Nghỉ mười phút, toàn đơn vị dừng lại trên một đoạn đường cái lớn. Một chiếc ô tô chết máy được giấu kỹ lưỡng dưới một tùm lá cây rậm rạp. 
Hỏi chuyện, bọn mình mới biết đồng chí lái xe phụ đã hy sinh. Đồng chí lái chính - tên là Thành - một mình đưa bạn ra khỏi cabin, ra tới nơi yên nghỉ cuối cùng. Nấm mồ được đánh dấu kỹ lưỡng, cách chiếc xe chỉ chừng bốn chục mét.

19/4/1971
Đường từ BT2 đến BT3 không thông. Đây là con đường giao liên duy nhất dẫn tới làng Hồ. Sáng nay một chiếc cáng cách làng Hồ sáu cây số được đưa ra. Đồng chí thương binh nằm trên cáng mê man. Người ta đã băng bó kỹ cho chiếc chân đã cụt đến đầu gối của anh mà máu vẫn rỉ ra võng. Một đồng chí khác bị hỏng mất mắt trái, tỉnh táo đi đầu chiếc cáng. Gặp bọn mình ngồi nghỉ, toán cáng thương cũng dừng lại. Họ xin nước uống và hỏi thăm đường ra BT1, trạm phẫu. "Đồng chí này" - họ chỉ vào chiếc cáng - "bị mìn hôm qua, đến hôm nay chưa thay băng".

oOo

(...) Ô tô dừng lại bên một sườn dốc. Những nhành đá tai mèo nhô ra tưởng như những cọc tiêu trên đường hay ở trạm ba-ri-e nào đó. Dưới thung, những tia khói xanh ngoằn ngoèo bay lên, quyện mùi thơm của hành tỏi xông nức mũi. Đơn vị B15 đã đến từ lúc nào rồi, đang tổ chức bữa cơm chiều dưới suối. Những tia nắng chiều xuyên qua các kẽ lá, rọi lung linh. Ve sầu kêu đổ hồi, tiếng các loài chim gần xa tạo thành một thứ âm thanh mới lạ.
Chính trị viên Hòa bước ra khỏi cabin, đóng cửa xe đánh "sầm" một tiếng khô và đanh, bụi tung đỏ lừ. Anh nói to:
- Tất cả xuống nhé. Đến rồi!
Trên các khoang xe, anh em lục đục nhận đồ đạc. Anh còn khỏe xuống xe trước đón ba lô. Các đại đội lần lượt tập hợp quân số, báo cáo và chờ lệnh di chuyển. Chiến sĩ dàn thành hai hàng đứng nép sát vách núi và bờ vực nhường đường cho mấy xe Zin xuống dốc, tìm bãi rộng để quay xe trở ra, về binh trạm.

oOo

Tiểu đoàn thành hàng dọc theo đồng chí giao liên dẫn đến chỗ nghỉ. Một con suối trong vắt hiền hòa chảy qua đường cái dẫn chúng tôi rẽ ngang để vào rừng. Anh em đeo vác nặng: ba lô quần áo, gạo muối, súng đạn, v.v... Lích kích đủ thứ. Từ nhánh suối nhỏ, chúng tôi tới một cái khe lớn đầy đá cuội trắng. Mặc dù đang vào mùa khô, nước vẫn tạo thành một dòng lớn, tung bọt trắng trườn qua những hòn cuội chắn giữa dòng.
Tôi theo bộ phận đoàn bộ đi vào sâu hơn - vùng thượng nguồn. Một vùng đất bằng phẳng nhưng ở trên cao. Có nhiều cây con mắc võng rất tiện. Tất cả đều ổn định chỗ nghỉ. Bếp Hoàng Cầm nhanh chóng được hình thành, chẳng mấy chốc, các bếp đều đã âm ỉ khói.

26/4/1971
Chúng tôi hành quân về phía Tây. Núi rừng Trường Sơn rộng lớn chạy dài vào hướng Nam. Càng ngày, chúng tôi càng lọt sâu vào rừng núi. Bốn bề, bốn bề lá keo dày đặc. Sau mỗi ngày theo con đường mòn len lỏi đi về phía trước, đơn vị lại dừng chân tại một binh trạm ven đường nghỉ đêm. Binh trạm nơi đây để lại nhiều dấu vết của bao người đã đi qua. Những thân cây cổ thụ với vết dao khắc tên kỷ niệm, ngày tháng họ đã đến, đã đi, còn hằn rõ vết dây võng, một ống bương ai đã khéo léo đặt dưới một phần đất cao ri rỉ nước, hứng đón từng giọt ngày này qua ngày khác vào mùa khô cạn... Những cái bếp Hoàng Cầm với một công trình tuyệt vời về đường ngầm dẫn khói đi ra các ngả để rồi tỏa lan, loãng dần trong không khí khiến máy bay địch không phát hiện được.
Đêm ngủ không yên tĩnh chút nào. Máy bay địch bay suốt đêm. Những đơn vị bạn hành quân tới trạm muộn, bước chân rầm rập, hối hả trong đêm tối. Họ tìm vị trí đóng quân. Những đốm lửa thuốc lá lập lòe, tiếng điếu cày kêu ròn trong tấm ni-lông trùm kín che ánh sáng.

oOo

1/5/1971
Đơn vị lên đường lúc bầu trời còn đầy sao. Tất cả sửa soạn nhanh gọn, nhẹ nhàng và xuất phát theo thứ tự từng bộ phận.
Bọn B52 đánh dữ dội, nổ rền rung chuyển. Lửa bom lóe sáng. Tiếng động cơ của F.105 hộ tống bay xèo xẹt trên đầu.
Đơn vị đi được một tiếng đồng hồ thì gặp ngay một con dốc cao. Dốc dữ dội, nói "dữ dội" là sai, nhưng quả là khiếp thật! Đèo cao và đèo. Đây là đường giao liên dẫn đi sâu về phía Tây Nam. Càng leo lên cao, cơ thể càng dần mệt mỏi. Mồ hôi ai cũng đều vã ra như tắm, tim đập thình thình, phải há cả miệng để thở.

(Còn tiếp)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.