Khủng hoảng tài chính Mỹ và những ảnh hưởng

16/10/2008 23:01 GMT+7

* Bài 2: Giải cứu Sự suy sụp dây chuyền bất động sản - tài chính Do lo lắng về diễn biến lạm phát, Cục Dự trữ liên bang (DTLB) bắt đầu tăng dần lãi suất, dẫn đến việc thị trường bất động sản (BĐS) bắt đầu chững lại vào đầu năm 2006.

Trong khi vào giữa năm 2003 lãi suất căn bản của Fed chỉ có 1% thì vào giữa năm 2006 nó đã tăng lên đến 5,25%, bắt buộc các ngân hàng thương mại phải đẩy lãi suất cho vay tiền mua nhà lên cao hơn nhiều nữa.  Tình hình lãi suất cao đã khiến cường độ vay để mua nhà giảm lại. Giá nhà bắt đầu trượt dốc vì cung vượt cầu. Nhiều người mua nhà giá cao trước đây bắt đầu thấy giá thị trường của căn nhà đang sở hữu thấp hơn khoản nợ mà mình đang vay. Bên cạnh đó, rất nhiều người trong nhóm vay tiền với lãi suất dưới chuẩn bắt đầu mất khả năng trả nợ khi lãi suất của họ bị điều chỉnh trở lại theo lãi suất mới hiện hành khá cao. Họ muốn bán nhà để trả nợ cũng không được vì giá nhà thấp hơn khoản nợ do thị trường tụt dốc. Hệ quả là họ đành bỏ nhà cho ngân hàng trưng thu lại.

Việc ngày càng nhiều người không có khả năng trả nợ ngân hàng mỗi tháng dẫn đến việc trị giá của các MBS bị tụt dốc. Như đã nói lúc đầu, có rất nhiều nhà đầu tư ở Phố Wall đã mua MBS. Do đó, khi MBS mất giá thì đồng nghĩa với việc tài sản của họ cũng bị mất theo, dẫn đến việc thiếu hụt vốn.  Bên cạnh đó, các công ty bảo hiểm MBS, chẳng hạn như AIG, cũng lâm vào cảnh khốn đốn khi phải đứng ra bảo lãnh ngày càng nhiều các khoản vay xấu. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại hoặc các công ty cho vay thế chấp còn giữ lại phần lớn các khoản vay cho mình (thay vì bán lại cho Fannie Mae chẳng hạn) cũng nhìn dòng vốn và tín dụng của mình bị cạn kiệt khi phải đương đầu với tỷ lệ mất khả năng trả nợ ngày càng cao của người vay thuộc nhóm dưới chuẩn. 

Tóm lại, bởi vì có nhiều mối liên hệ chằng chịt giữa người vay và nhiều thành phần cho vay trực tiếp cũng như gián tiếp, việc tụt dốc của thị trường BĐS đã ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường tài chính nói chung. Mức độ lan tỏa và nghiêm trọng của vấn đề là do sự mua đi bán lại các công cụ tài chính phát sinh (các MBS và CDS) đã kéo quá nhiều các thành phần đầu tư, trong cũng như ngoài nước, vào cuộc chơi trong khi luật lệ của sân chơi thì vẫn thiếu sót hoặc không rõ ràng.

Vấn đề mấu chốt hiện giờ là sự khan hiếm tín dụng đang hoành hành. Vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng hơn khi các nhà đầu tư bắt đầu bán tháo bán đổ các công cụ đầu tư mạo hiểm để tìm cách bảo tồn vốn. Sự việc này dẫn đến niềm tin vào thị trường bị tụt dốc và "suy nghĩ và hành động bầy đàn" trở nên phổ biến, bắt buộc chính phủ phải xen vào thị trường một cách rộng lớn và táo bạo để khôi phục niềm tin.

 
Thị trường chứng khoán Mỹ tuột dốc - Ảnh: Reuters

Chính phủ Mỹ ra tay

Trước sự tụt dốc không phanh của thị trường BĐS và sự bất ổn của thị trường tài chính, Chính phủ Hoa Kỳ bắt buộc phải ra tay cứu nguy để ngăn chặn khủng hoảng kinh tế ở phương diện rộng lớn. Chính phủ Mỹ đã lần lượt cứu nguy cho bốn công ty khổng lồ có liên quan trực tiếp đến cuộc khủng hoảng thị trường dây chuyền BĐS - tài chính.  Thứ nhất, vào tháng 3 năm nay, để tránh cho Bear Stearns bị phá sản do đã đầu tư quá nhiều vào các MBS xấu, Cục DTLB đã đứng ra bảo lãnh 30 tỉ USD các khoản nợ phải trả của Bear để tạo điều kiện cho JP Morgan Chase mua lại Bear Stearns. Thứ nhì, vào đầu tháng 9, Bộ Tài chính thông báo một gói cứu nguy khẩn lên đến 200 tỉ USD để giúp Fannie Mae và Freddi Mac (2 công ty đã đổ vốn rất nhiều vào thị trường BĐS như đã nói lúc đầu) tiếp tục hoạt động nhằm cố gắng bình ổn thị trường.

Tiếp đó, vào giữa tháng 9, để ngăn chặn khủng hoảng tràn lan, Cục DTLB lại tiếp tục khẩn cấp cứu nguy cho AIG (công ty bảo hiểm tư nhân lớn nhất thế giới) bằng cách cho vay 85 tỉ USD để giúp AIG thoát khỏi phá sản.  Như đã đề cập ở phần trước, AIG đã bán quá nhiều bảo hiểm CDS cho các nhà đầu tư MBS cho nên khi thị trường BĐS bị vỡ nợ, AIG buộc phải chi ra rất nhiều để trả cho các hợp đồng bảo hiểm. Do AIG có quy mô hoạt động toàn cầu (bán bảo hiểm đủ loại trên 100 nước trên thế giới) cho nên nếu để nó bị phá sản thì sẽ ảnh hưởng xấu tràn lan khắp nơi. Do đó, động thái cứu nguy cho AIG được coi như là bắt buộc để ngăn chặn đà lan tỏa của cuộc khủng hoảng.

Ba động thái cứu nguy trên cho thấy chính phủ đã xen vào thị trường một cách hết sức mạnh tay. Tuy nhiên, vì tính chất phức tạp và các quan hệ đan xen của các nguyên nhân gây ra khủng hoảng, sự phục hồi niềm tin trong thị trường đã trở nên vô cùng khó khăn. Bên cạnh đó, việc chính phủ không cứu nguy để cho ngân hàng đầu tư khổng lồ Lehman Brothers bị phá sản (vào giữa tháng 9) cũng làm cho các nhà đầu tư lo sợ với suy nghĩ là công ty của mình cũng sẽ bị số phận tương tự. Việc tiếp tục mất niềm tin đã thể hiện qua việc thị trường chứng khoán liên tục bị tụt dốc khi các nhà đầu tư tranh nhau bán cổ phần để rút tiền ra khỏi thị trường nhằm tìm những bãi đáp an toàn hơn, chẳng hạn như trái phiếu ngắn hạn của chính phủ (T-bill).

Trước sự hoang mang cao độ của thị trường tài chính và ảnh hưởng xấu của nó lên nền kinh tế nói chung, Chính phủ Mỹ bắt buộc phải ban hành Đạo luật Bình ổn kinh tế khẩn cấp vào đầu tháng này (ngày 3 tháng 10). Đạo luật này cho phép Bộ Tài chính sử dụng lên đến 700 tỉ USD để mua lại những cổ phần và tài sản có vấn đề của các công ty tài chính, đặc biệt là các MBS xấu. Mục đích chính là giảm bớt sự mất mát của các công ty này và trút vốn vào hệ thống tài chính để khôi phục niềm tin và đẩy lui cuộc khủng hoảng tín dụng có nguy cơ đẩy nền kinh tế lún sâu vào trì trệ.

Hiện tại, hiệu quả của đạo luật này như thế nào thì sẽ phải chờ thời gian trả lời, bởi vì việc mua lại các tài sản hoặc cổ phần của các công ty tài chính cũng cần phải có thời gian để nhận diện và định giá. Niềm tin vào thị trường hiện vẫn đang xuống dốc trầm trọng do người ta còn chưa biết rõ là sự mất mát của các công ty tài chính lớn đến chừng nào. Câu hỏi đưa ra là liệu 700 tỉ USD có đủ để cứu hết không. Thị trường chứng khoán Mỹ vẫn liên tục tụt dốc sau khi đạo luật được ban hành. Cho tới ngày 9.10, chỉ số Dow Jones tụt 7 phiên liên tiếp. Khoảng 700 tỉ USD đã bốc hơi trong khoảng thời gian này. Kể từ thời điểm này năm ngoái đến bây giờ, thị trường chứng khoán Mỹ đã mất 8.000 tỉ USD.

Tuy nhiên, có một điều rõ ràng là đa số dân Mỹ rất bất bình trước chuyện chính phủ dùng tiền thuế của dân để cứu nguy cho các nhà đầu tư mạo hiểm và hám lợi. Một điều chắc chắn sẽ xảy ra là rồi đây môi trường đầu tư các công cụ đầu tư phát sinh sẽ được tăng cường kiểm soát. Cả hai ứng cử viên tổng thống hiện tại, mặc dù có lập trường khác nhau về mức độ xen vào thị trường của chính phủ, đều công nhận rằng Phố Wall cần phải được giám sát chặt chẽ hơn để tránh lặp lại trường hợp chính phủ phải dùng tiền thuế của dân để cứu nguy cho các nhà đầu tư.  (Còn tiếp)

Bài 1: Cuộc khủng hoảng hình thành như thế nào?

Trần Văn Thọ - Trần Lê Anh (*)

-----------------------------
(*) Tác giả Trần Văn Thọ: Giáo sư kinh tế, Đại học Waseda, Tokyo (Nhật Bản), hiện đang nghiên cứu ở Đại học Harvard, Cambridge (Mỹ)
Tác giả Trần Lê Anh: Phó giáo sư kinh tế và quản trị kinh doanh, Đại học Lasell, Boston (Mỹ).

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.