Thị trường xây dựng cuối năm: Ổn định giá

19/10/2004 09:27 GMT+7

Với người dân đô thị, chuyện xây cất nhà cửa luôn được quan tâm, không chỉ về giá cả mà cả chất lượng. Thị trường xây dựng cuối năm nay khá ổn định, giá cả tăng không nhiều, đặc biệt không có đột biến giá một số loại vật liệu xây dựng như giá thép hồi cuối năm ngoái khiến nhiều người lao đao. Tuy nhiên, ổn định, có nghĩa là đứng giá ở mức cao, chứ không rẻ.

Nhà xây thô: khoảng 600.000 - 800.000 đ/m2

Ðó là ước tính sơ bộ của các chủ thầu xây dựng. Giá này còn dao động tùy theo vị trí công trình (có xa đường ô tô không, vận chuyển có dễ dàng không...) vì điều này cũng góp phần đội giá đáng kể. Mua vật liệu tính theo đơn vị ô tô giá thấp hơn nhiều so với mua xe cải tiến, chưa kể tiền công vận chuyển, bốc dỡ. Giá cả cũng có thể cao hơn, nếu chủ công trình muốn có một nền móng thật vững chắc, có thể đổ hàng trăm triệu vào làm móng một căn nhà 5 tầng mặt bằng năm bảy chục mét. Ép cọc bê tông là cái mốt hiện nay, khá nhiều nhà xây mới chọn cách ép cọc để làm khung nhà vững chãi hơn (và cũng tốn tiền hơn). Giá ép cọc dao động từ 80.000 - 120.000đ/m dài, tuỳ thuộc vào địa điểm và khối lượng công việc.

Giá cả trên thị trường xây dựng hiện nay tương đối ổn định. Gạch đặc giá 370 - 380 nghìn đồng/nghìn viên; gạch lỗ 450 nghìn đồng/nghìn viên. Xi măng được ưa chuộng trên thị trường vẫn chủ yếu là Hoàng Thạch và Quốc phòng, trong đó Hoàng Thạch luôn là sự lựa chọn số một để đổ trần. Giá xi măng Hoàng Thạch hiện nay là 78 nghìn đồng/tạ, trong khi xi măng Quốc phòng đứng giá 60 nghìn đồng/tạ. Người tiết kiệm thường dùng xi măng Quốc phòng trong xây trát do giảm được đáng kể chi phí mà chất lượng cũng khá tốt. Mùa này nước đã rút nên giá cát sỏi có phần giảm do chi phí khai thác giảm. Giá cát đen chỉ còn 75 - 80 nghìn đồng/xe 3 khối, so với lúc cao điểm nước lớn, có khi giá lên tới 120 nghìn đồng/xe. Cát vàng dùng để đổ trần, giá 130 nghìn đồng/xe 3 khối. Sỏi loại tốt, giá 240 nghìn đồng/xe.

Một trong những mặt hàng giá cả thường biến động khiến cho dân xây dựng điêu đứng là giá sắt thép. Còn nhớ đầu năm nay giá sắt thép tăng vọt, khiến nhiều chủ thầu xây dựng công trình nhà nước méo mặt, trông thấy lỗ cầm chắc, thậm chí có nơi còn bỏ của chạy lấy người, chịu phạt còn hơn phá sản. Ðến nay, giá thép không tăng nữa nhưng vẫn đứng ở mức cao. So với cùng thời điểm năm ngoái, giá tăng tới gần 20%. Hiện nay, giá sắt phi 16, loại dùng làm cột, dầm cho nhà dân dụng, giá 140 nghìn đồng/cây (11,7m). Nếu dùng loại "thép gầy", tiếng lóng của dân trong nghề chỉ loại thép chưa đủ tiêu chuẩn (thiếu khoảng 1 ly), thì giá chỉ 127 nghìn đồng/cây. Sắt phi 18 giá 185 nghìn đồng/cây, phi 20 giá 218 nghìn đồng/cây. Loại sắt nhỏ cỡ phi 6, phi 8, dùng để đổ trần, làm cầu thang, giá 8000 đồng đồng/cân.

Giá công xây dựng đã tăng hơn so với năm ngoái. Cũng có thể hiểu được, vì lương nhà nước tăng, thì đương nhiên lương của thợ ngoài quốc doanh cũng nhích lên theo. Công nhật của thợ xây bậc cao bây giờ đã 40 nghìn đồng/ngày. Với xây nhà mới, nếu nhận khoán trọn gói (không bóc tách cầu thang, ốp lát...) thì giá dao động từ 230 - 240 nghìn đồng/m2. Mức giá này đã bao gồm một phần các công việc hoàn thiện như ốp lát. Nhà sửa chữa, cải tạo thì tuỳ theo khối lượng công việc cụ thể, nhưng nói chung nhà sửa chữa sẽ phải trả tiền cao hơn xây mới, do tính chất công việc manh mún, không đồng nhất.

Hoàn thiện: từ 1 triệu... đến vô cùng

Nếu như trong xây thô, giá cả tương đối đồng nhất do tính chất như nhau của nguyên vật liệu, thì phần hoàn thiện chính là điểm để phân biệt sự khác nhau giữa các ngôi nhà (và các chủ nhà). Nhìn vào quá trình hoàn thiện, có thể thấy gu thẩm mỹ, túi tiền, thậm chí cả sở thích và tính cách của chủ nhà. Giá cả quá chênh lệch giữa các thiết bị hoàn thiện khiến cho giá xây các ngôi nhà rất khác nhau. Gạch lát nền từ 40 nghìn đồng/m2 đến 400 nghìn đồng/m2. Bồn tắm giá từ 1 triệu - 50 triệu đồng/cái. Vòi sen giá từ 50 nghìn đến 3 triệu đồng/vòi. Sơn tường từ 100 nghìn - 400 nghìn/thùng... Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin cung cấp mức giá hoàn thiện phổ thông nhất.

Giá công sơn bả hiện nay là 6.000 đ/m2. Nếu kèm nguyên vật liệu (loại trung bình khá như sơn Nippon Maxilline), thì giá 18.000 đ/m2. Trên thị trường còn có một số loại sơn khác cao cấp hơn như Dulux, Kova, Levis... Loại sơn này chủ yếu do chủ nhà mua về cho thợ sơn, chứ ít được dân làm công trình sử dụng do giá cao, dùng lại hao. Gạch ốp lát có nhiều loại, được ưa chuộng nhờ mẫu mã đẹp và giá vừa phải là gạch liên doanh hoặc hàng nội, giá từ 60 - 100 nghìn đồng/m2. Công lát nền là 15 nghìn đồng/m2, ốp vệ sinh, bếp 25 nghìn đồng/m2. Cầu thang thường làm đá xẻ, gỗ hoặc granito. Ðá xẻ giá 120 - 150 nghìn đồng/m2. Ôp gỗ thông giá 200 nghìn đồng/m2, gỗ giáng hương 350 nghìn đồng/m2. Cầu thang granito, giá bao nguyên vật liệu là 90 nghìn đồng/m2 cho granito hai màu, 140 nghìn đồng/m2 nếu từ 4 màu trở lên.

Phần hoàn thiện điện, nước cũng rất đáng kể. Thông thường, ngoài thiết bị điện là vô cùng giá, tuỳ chủ, thì giá công lại thống nhất. Công lắp điện là 350 nghìn đồng/phòng, nước từ 400 - 450 nghìn đồng/phòng. Cửa nhôm kính mấy năm nay tương đối đứng giá, vẫn 350 nghìn đồng/m2. Cửa gỗ chò (loại phổ thông nhất), giá 500 - 550 nghìn đồng/m2.

Nói chung, tính đổ đồng, một căn nhà xây ở mức trung bình khá hiện nay mức giá dao động từ 1,8 triệu - 2 triệu đồng/m2. Mức giá này cao hơn khoảng 15% so với năm ngoái và không hứa hẹn sẽ giảm, nếu như không nói luôn bị đe dọa bới giá nguyên vật liệu tăng do ảnh hưởng của biến động năng lượng trên thế giới hiện nay.

Ngọc Mai
(KT&ĐT)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.